Tiểu sử Hiếu_Kính_Hiến_Hoàng_hậu

Xuất thân đại tộc

Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị.

Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu sinh ngày 13 tháng 5 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 20, xuất thân từ gia tộc Ô Lạp Na Lạp thị của Hải Tây Nữ Chân, nguyên kỳ tịch là Mãn Châu Chính Hoàng kỳ.

Căn cứ Mãn Châu Bát kỳ thị tộc thông phổ (八旗满洲氏族通谱), tổ tiên của Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu là Đại bộ chủ thứ tư của Hỗ Luân quốc tên Đô Nhĩ Hi (都尔希), sinh ra trưởng tử tên Ngạch Diệc Thương Cổ (额亦商古), khởi thủy của nhánh gia tộc của Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu. Ô Lạp Na Lạp thị, tức [Dòng họ Na Lạp thị ở đất Ô Lạp], vốn là một dòng họ lâu đời. Thủy tổ Đô Nhĩ Hi là hậu duệ của Nạp Tề Bố Lộc (纳齐布禄) - tương truyền là dòng dõi của hoàng tộc nhà Kim, khai sinh ra [Hỗ Luân quốc; 扈伦国]. Theo tiến trình lịch sử, Hỗ Luân quốc diệt vong, nhánh lớn của Đô Nhĩ Hi là Ngạch Diệc Thương Cổ không ghi lại, nhưng nhánh nhỏ Cổ Đối Châu Nhan (古对珠颜) là Bố Nhan về sau khai sinh ra Ô Lạp bộ tộc, Thanh Thái Tổ Đại phi A Ba Hợi cũng xuất thân từ gia tộc này, là con gái của Bối lặc Mãn Thái - cháu nội trực hệ của Bố Nhan.

Tằng tổ Thấu Nột Ba Đồ Lỗ (透讷巴图鲁), sinh ra tổ phụ của Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu gọi Bác Hô Sát (博瑚察), lúc này thì Bác Hô Sát đã là tằng tôn của Ngạch Diệc Thương Cổ. Vào đầu thời Hậu Kim, Bác Hô Sát đã quy phụ, nhậm chức Tá lĩnh. Trưởng tử của Bác Hô Sát tên Nặc Mục Tề (诺穆齐), kế nhậm Tá lĩnh, còn con thứ của Bác Hô Sát tên Phí Dương Cổ (費揚古), nhận mệnh Thanh Thái Tông làm Bao y, vào cung sinh hoạt, dần lên [Nhị đẳng Thị vệ] do lập nhiều quân công. Vị Phí Dương Cổ này chính là sinh phụ của Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu.

Vào thời sau, Phí Dương Cổ lại thăng [Kỵ đô úy], Hộ quân Thống lĩnh, Nội vụ phủ Đại thần. Do đó, Phí Dương Cổ quy bổn kỳ, xóa bỏ thân phận Bao y, lại thăng Nhất phẩm Bộ quân Thống lĩnh, kiêm tước [Nhất Vân kỵ úy; 一雲騎尉]. Sau khi mất, người cháu Phú Tồn (富存) tập [Kỵ đô úy], kiêm Nhất Vân kỵ úy, tiếp nhận chức vị Nhị đẳng Thị vệ[1]. Chính thê của Phí Dương Cổ là Đa La cách cách Giác La thị, thuộc dòng dõi của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, là con gái của Bối tử Mục Nhĩ Hỗ (穆尔祜) - cháu 3 đời của Phế Thái tử Chử Anh. Không rõ sinh mẫu của bà, song theo nhiều biểu hiện thì bà được Đích mẫu Giác La thị nuôi dạy[2].

Ung vương Đích phi

Năm Khang Hi thứ 30 (1691), do Khang Hi Đế chỉ định, Na Lạp thị thành thân với Hoàng tứ tử Dận Chân và được sắc phong thành Đích Phúc tấn[3][4][5]. Lúc này Dận Chân được 13 tuổi, còn Na Lạp thị chỉ mới 10 tuổi. Năm thứ 33 (1694), Khang Hi Đế ban phủ đệ cho Hoàng tứ tử Dận Chân, là Ung Hòa cung, đương thời gọi [Tứ gia phủ].

Năm Khang Hi thứ 36 (1697), ngày 26 tháng 3 (tức ngày 17 tháng 4 dương lịch), Na Lạp thị sinh hạ Hoằng Huy (弘晖), là con trai đầu tiên của Hoàng tử Dận Chân. Sang năm sau (1698), Dận Chân được ban tước [Đa La Bối lặc; 多罗贝勒]. Việc một Hoàng tử được phong tước khi Hoàng đế còn sống, đối với thời kỳ Khang Hi vẫn là tương đối hiếm thấy. Ngay 1 năm sau khi Đích Phúc tấn hạ sinh Hoằng Huy, Khang Hi Đế liền gia phong cho Dận Chân, có thể nhìn ra hai chuyện này có liên quan.

Năm Khang Hi thứ 43 (1704), ngày 6 tháng 6 (tức ngày 17 tháng 8 dương lịch), Hoằng Huy qua đời khi 8 tuổi, nhập táng Hoàng Hoa sơnThanh Đông lăng. Sau khi Hoằng Huy qua đời, Phúc tấn Na Lạp thị không còn hoài thai thêm lần nào nữa. Song, Bối lặc Dận Chân là người hòa nhã, vẫn rất coi trọng Phúc tấn. Vào năm Khang Hi thứ 46 (1707), Khang Hi Đế ban cho Bối lặc Dận Chân Viên Minh Viên, Dận Chân bèn mở yến tiệc mời Hoàng đế dùng bữa, trong đó Na Lạp thị hầu yến.

Năm Khang Hi thứ 48 (1709), Khang Hi Đế gia phong Dận Chân tước vị [Hòa Thạc Ung Thân vương; 和硕雍亲王].

Liên quan